Tinh dầu Dalbergia Odoriferae Lignum nguyên chất dùng để làm nến và xà phòng bán buôn tinh dầu khuếch tán mới cho máy khuếch tán bằng đèn đốt sậy
Theo cơ sở dữ liệu của The Plant List (http://www.theplantlist.org, 2017), tên được chấp nhận sau đây củaDalbergia odoriferaLoài T. Chen được liệt kê ở mức độ tin cậy cao [13]. Cây thuốcD. odoriferaloài này, còn được gọi là gỗ hồng thơm, là một loại cây lâu năm bán rụng lá [14], với các đặc điểm hình thái như chiều cao 30–65 feet, lá hình bầu dục và hoa màu vàng nhỏ [14]. Hình thái đặc trưng cũng đã được báo cáo trong công trình của Hao và Wu (1993), dựa trên mô tả chi tiết về hình dạng vật lý và cấu trúc bên ngoài được tạo ra trên các tế bào nhu mô thân của một cây rụng lá nhiệt đớiD. odoriferagiống loài [15]. Như kết quả đã trình bày, trong mạch rây thứ cấp của cành nhỏ và thân cây, các protein không bào được tìm thấy trong tất cả các tế bào nhu mô, ngoại trừ các tế bào kèm theo. Ngoài ra, các protein trong nhu mô tia và nhu mô mạch máu chỉ xuất hiện ở mạch gỗ thứ cấp bên ngoài của cành nhỏ, nhưng không có trong mạch gỗ thứ cấp của thân cây. Các protein không bào mạch gỗ tích tụ vào cuối thời kỳ sinh trưởng và biến mất sau đợt sinh trưởng đầu tiên vào mùa xuân. Các protein không bào mạch rây cho thấy sự thay đổi theo mùa, đặc biệt là ở các tế bào gần tầng sinh gỗ. Cấu trúc dạng sợi của protein không bào rõ ràng được tìm thấy trong trạng thái tập hợp hoặc phân tán ít nhiều đều nhau xảy ra ở các không bào trung tâm lớn trong cả thời kỳ sinh trưởng và ngủ đông. Điều quan trọng là bản chất phát triển theo mùa ở cây nhiệt đới có thể khác với cây ôn đới, trong đó một cây họ đậu từ vùng nhiệt đới của Trung Quốc nhưD. odoriferacác loài có protein dự trữ thân trong các không bào trung tâm lớn, nhưng các protein dự trữ thân của cây ôn đới xuất hiện dưới dạng các không bào dự trữ protein nhỏ hoặc các thể protein, và loại dự trữ protein thân cụ thể được tìm thấy ở thực vật nhiệt đới có thể không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên [15].
Cây thuốcD. odoriferaLoài này được chứng minh là một trong những loài gỗ hồng sắc quý giá nhất thế giới, có giá trị dược liệu đa dạng và giá trị thương mại cao. Ví dụ, gỗ lõi của nó, được gọi là "Giang Hương" trong y học cổ truyền Trung Quốc, đã được sử dụng trong Dược điển Trung Quốc để điều trị các bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường, rối loạn máu, thiếu máu cục bộ, sưng tấy, hoại tử và đau thấp khớp [6,7]. Theo như chúng ta biết, lõi gỗ cung cấp một nguồn tinh dầu có giá trị, có thể được coi là chất cố định nước hoa quý giá [1]. Ngoài vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp dược phẩm, lõi gỗ còn nổi tiếng với đồ nội thất và đồ thủ công cao cấp, nhờ hương thơm ngọt ngào, bề mặt đẹp và mật độ cao [2]. Người ta nhận thấy rằng cây dạiD. odoriferaloài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống và khai thác quá mức để sử dụng gỗ [2,16]. Do đó, việc bảo vệ và phát triển loài này là một nhiệm vụ cấp bách. Song song với đó, gần đây, ảnh hưởng của biến đổi địa lý và nhiệt độ lênD. odoriferasự nảy mầm của hạt giống (dựa trên bốn địa điểm địa lý: Lạc Đông, Hải Nam; Bằng Tường, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây; Triệu Khánh, Quảng Đông; và Long Hải, Phúc Kiến, Trung Quốc) đã được báo cáo trong công trình của Liu et al. (2017) [16]. Kết quả cho thấy nhiệt độ nảy mầm tối ưu cho hạt giống thu thập từ Lạc Đông và Bằng Tường là 25°C, trong khi nhiệt độ nảy mầm tối ưu cho hạt giống từ hai nơi còn lại là 30°C. Trong một trường hợp khác, Lu và cộng sự (2012) phát hiện ra rằng khả năng tạo nốt sần để cố định N2 từ khí quyển ởD. odoriferaloài là điều kiện tiên quyết cho sự hình thành và phát triển của cây con, và do đó chúng ta cần xác định mối quan hệ cộng sinh giữa các chủng vi khuẩn cộng sinh và nốt sần củaD. odoriferagiống loài [17]. Phân tích phát sinh loài của gen rRNA 16S và đoạn mã phiên mã nội bộ 16S–23S (ITS) cho thấy hai chủng vi khuẩn này, 8111 và 8201, được phân lập từ các nốt sần rễ của một loại cây họ đậu gỗ đặc hữu ở miền Nam Trung Quốc,D. odoriferacác loài có quan hệ gần gũi vớiBurkholderia cepaciaTrong khi đó, chúng cũng tương tự nhau về việc sử dụng nguồn carbon khi sử dụng các thử nghiệm trên đĩa sinh học GN2 và hàm lượng G+C DNA của chúng lần lượt là 65,8 và 65,5 mol% [17]. Hai loại chủng, 8111 và 8201, cung cấp thêm nhiều điểm tương đồng cao vớiB. cepaciaphức tạp trong quá trình oxy hóa hầu hết các nguồn cacbon, ngoại trừ cellobiose, so vớiB. cepaciaVàB. pyrrociniabằng quá trình oxy hóa cellobiose và xylitol và vớiB. vietnamiensisbằng quá trình oxy hóa adonitol và cellobiose [17]. Ngoài ra, sinh khối thực vật và hàm lượng N cho thấy quá trình cố định N2 hoạt động xảy ra ở các nốt sần sau khi tiêm chủng hai loại này.Burkholderiacác chủng loại, so với cây giống đối chứng âm tính củaD. odoriferagiống loài [17]. Tóm lại,Burkholderiacác chủng 8111 và 8201 có thể đóng vai trò tích cực trong việc hình thành các nốt sần chức năng của các loài cây họ đậuD. odorifera[17].
Nấm nội sinh hay nấm nội sinh, hiện diện rộng rãi bên trong các mô khỏe mạnh của thực vật, có thể ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành các sản phẩm trao đổi chất và chất lượng cũng như số lượng các sản phẩm tự nhiên có nguồn gốc từ cây thuốc [49]. Mối quan hệ giữa các loại nấm khác nhau và gỗ lõi không đều một phần của Quảng Đông, Trung Quốc,D. odoriferaloài, được báo cáo bởi Sun và cộng sự (2015); đầu tiên, chỉ có hai loại nấm được phân lập từ 160 mô gỗ khỏe mạnh màu trắng, khoảng bảy năm tuổi, thuộc họ Bionectriaceae. Ngược lại, 85 loại nấm được xác định từ mô gỗ bị thương màu tím hoặc nâu tím, khoảng bảy năm tuổi, và thuộc 12 loài [2]. Thứ hai, việc xác định phân tử và phân tích phát sinh loài cho thấy các loại nấm được phân lập đã thực hiện bảy nhánh riêng biệt với phần lớn các giá trị bootstrap cao hơn 90%, bao gồmFusariumsp., Bionectriaceae, Pleosporales,Phomopsissp.,Exophiala jeanselmei,Auricularia polytricha, VàOudemansiellasp. Ví dụ, trình tự ITS từ mã phân lập 12120 từ gỗ bị thương đã được xác định làPhomopsissp. và được nhóm lại bằng hỗ trợ bootstrap 98% vớiPhomopsissp.DQ780429hoặc với mã riêng biệt 12201 có nguồn gốc từ gỗ trắng khỏe mạnh, tạo ra một nhánh được hỗ trợ mạnh mẽ vớiBionectriaceaesp.EF672316, đặc biệt là ba phân lập 12119, 12130 và 12131 có liên quan chặt chẽ với nhau theo giá trị bootstrap 92%, được nhóm lại mạnh mẽ với các trình tự tham chiếu củaFusariumsp. trong GenBank. Thứ ba, nghiên cứu sâu rộng và phân tích tổng thể về tần suất phân lập nội sinh đã phát hiện ra mười hai loài nấm trong gỗ bị thương màu nâu tím, trong đó tần suất xâm chiếm tổng thể là 53,125%, thuộc tám chi hoặc họ:Eutypa,Fusarium,Phomopsis,Oudemansiella,Eutypella,Auricularia,Pleoporalessp., vàExophiala, trong đóEutypasp. (12123) là phổ biến nhất với 21,25%, trong khi chỉBionectriaceae(1,25%) được tìm thấy trong gỗ trắng khỏe mạnh. Cuối cùng, phân tích giải phẫu cho thấy một số sợi nấm xuất hiện trong mạch gỗ bị thương màu nâu tím, trong khi sợi nấm này không được tìm thấy trong mạch gỗ trắng khỏe mạnh.




